hoại tử ngón chân cái
Cái cầu phao này còn nguy hiểm hơn những gì bọn họ nghĩ ----- "mặt cầu" làm từ ván gộ đã sớm bị nước làm mục đi, chân đạp lên có thể nghe tiếng ken két vang lên, "thân cầu" được bện bằng dây leo, dày chừng cỡ cái bát, được buộc vào mấy thân cây to.
Hằng ngày, bệnh nhân cần ngâm ngón chân và thay vật dụng y tế tại nhà. Cắt bỏ một phần móng: đối với trường hợp móng chọc thịt nghiêm trọng hơn (đỏ, đau và chảy mủ), bác sĩ có thể cắt tỉa hoặc cắt bỏ một phần móng chọc thịt. Trước khi thực hiện thủ
Sưng tấy ở bàn tay, bàn chân, có cảm giác châm chích như bị kiến cắn. Màu da tay và chân tím tái, xanh đen, không còn hồng hào. Xuất hiện các nốt viêm loét từ nhỏ đến to, sau đó lan rộng ra các khu vực xung quanh. Trường hợp bệnh ở giai đoạn nặng, các ngón tay ngón chân chuyển hẳn sang màu đen và bị hoại tử nặng.
Evay Vay Tiền. Trang chủ Làm đẹp Thứ Bảy, ngày 15/12/2012 0600 AM GMT+7 "Nail dạo" là kiểu dịch vụ cắt tỉa, vẽ, đính đá lên móng tay, móng chân cho khách hàng dưới hình thức di động. Chỉ cần khách gọi điện thoại, thông báo địa điểm là thợ nail sẽ đến tận nơi sơn sửa móng. Tiện lợi là thế nhưng hậu quả cũng khôn lường. Tiện, rẻ, đẹp chỉ có ở... "nail dạo" Đi kèm với dịch vụ gội đầu, uốn nhuộm tạo kiểu tóc, nhiều cửa hàng làm đẹp kiêm thêm dịch vụ sơn sửa, vẽ móng, đính đá cầu kỳ cho móng tay, móng chân của chị em phụ nữ và cả nam giới nếu có nhu cầu. Tuy nhiên, không phải thợ làm tóc nào cũng có thể đảm nhận được vai trò làm nail, vì nó khá phức tạp. Tại một cửa hàng cắt tóc trên phố Việt Hưng Hà Nội, chị Thu Khánh - chủ cửa hàng cho biết, nhiều nơi chỉ chuyên cắt tóc, gội đầu, tạo kiểu tóc chứ không có thợ làm nail. Do đó, nhiều cửa hàng mở thêm "mô hình liên kết" với các thợ dạo, chỉ cần "alo" là họ có mặt; cửa hàng thì có thêm tiền % dịch vụ. Tranh thủ có khách muốn vẽ móng, đính đá, chị Khánh gọi đến số điện thoại 0127853xxxx của "mối ruột" chuyên làm "nail dạo". Chưa đầy 10 phút sau, một cô gái trẻ ăn mặc khá sành điệu, tên là Linh đã có mặt để "tác nghiệp". Linh cho biết, nghề từ khi là thợ học việc cho một quán chuyên vẽ móng làm nail ở gầm cầu Chương Dương Hoàn Kiếm, Hà Nội. Thạo nghề nhưng chưa có tiền mở cửa hàng riêng nên Linh chuyển sang nhận mối tại các cửa hàng cắt tóc gội đầu hoặc làm nail dạo tại các khu chợ như Hàng Da, chợ Hôm, chợ Đồng Xuân... ở nội thành Hà Nội. Lâu dần, có nhiều khách quen, gọi điện, Linh đến tận nhà để phục vụ. Các thợ “nail dạo” hành nghề ngay trên đường phố, vỉa hè bụi bặm. Theo quan sát của PV, dụng cụ hành nghề của "nail dạo" khá đơn giản, thợ chỉ cần mang một bộ cắt, gọt móng chân, móng tay, khoảng chục loại sơn móng, ít bông, khăn, các mẫu bút vẽ móng, bột đắp, hạt đá và các loạt hạt đính lên móng... Giá làm "nail dạo" thường "mềm" tức rẻ hơn nhiều so với giá trong tiệm, hợp với túi tiền của đại đa số "thượng đế". Dịch vụ cắt, tỉa và vẽ một bộ móng tay hoặc chân tại các tiệm hạng sang có giá khoảng - đồng. Trong khi đó, làm móng dạo có mức giá khoảng - đồng. Nếu "thượng đế" có nhu cầu đắp móng bột, đính đá sẽ phải trả thêm khoảng - đồng, tuỳ theo mẫu vẽ móng. Theo quảng cáo của Linh, các loại sơn móng cô dùng đều của hãng OPI, Loreal, The Face shop nên mức giá cao hơn. Còn một số “nail dạo” khác lại dùng sơn móng gia công rẻ tiền nên chi phí dịch vụ khá "bèo", chỉ từ đồng/lần vẽ móng. Nhiều thợ làm móng có thể còn sử dụng chiêu thức "treo đầu dê, bán thịt chó" để đánh lừa khách hàng. Quảng cáo là dùng sơn móng "xịn" nhưng thực chất chỉ tái sử dụng vỏ của các lọ sơn đắt tiền để chứa sơn kém chất lượng pha loãng sơn "xịn". Sau đó, người làm nail dạo vẫn tính phí với "thượng đế" giá cao. Cách này, làm cho sơn nhanh khô nhưng lại ảnh hưởng tới "sức khỏe" của móng tay. Các loại hạt đá, hạt trang trí móng được thợ tìm nguồn ở chợ Đồng Xuân, phố Hàng Bồ Hà Nội. Năm nay, “nail dạo” còn có thêm hình thức làm đẹp móng mới là đính các loại hình trang trí bằng đất sét lên móng, từ hình hoa quả đến các con vật ngộ nghĩnh. Mua một khúc đất sét chỉ mất - đồng, người ta cắt ra, có thể đính lên vài chục bộ móng tay, móng chân. Chất liệu bằng đất sét, giá rẻ nên các em tuổi teen rất chuộng. Cứ một tuần lại vẽ móng, đính đất sét/lần, giá thành thấp nhưng làm nhiều, vẫn cho người thực hiện thu nhập cao. Các loại hạt đá, đất sét đính lên móng chân, móng tay là hàng gia công Trung Quốc. Có thể phải tháo khớp... ngón Khi hỏi, chất liệu các loại đất sét, hạt đá có ảnh hưởng đến mặt móng chân, móng tay không thì đa số thợ nail đều lắc đầu. Vì, họ chỉ được đào tạo vẽ móng theo các mẫu có sẵn, hoặc cập nhật thêm kiểu vẽ nào cho đẹp, bắt mắt chứ "khâu" chăm sóc móng thì do khách hàng tự xử lý. Các loại hạt đá và đất sét này chủ yếu là hàng gia công của Trung Quốc. Bao bì rất đơn giản và là loại đá đính lên quần áo, giày dép chứ không phải là chất liệu được sử dụng dành riêng cho móng chân. Do đó, đằng sau những bộ móng được sơn vẽ cầu kỳ, sành điệu, “nail dạo” cũng luôn tiềm ẩn nguy cơ nhiễm bệnh cho các chị em. Chị Thanh Hà Hàng Đường, Hà Nội chia sẻ "Tôi trông coi cửa hàng nên có nhiều thời gian rảnh. Tôi thường gọi thợ “nail dạo” đến vẽ móng. Trong lúc không cẩn thận, thợ cắt tỉa da thừa và bấm kìm quá sâu khiến khoé móng chân của tôi toé máu. Sau đó, vết thương bị chín mé, sưng tấy. Nghĩ vết thương đơn giản nên tôi chỉ bôi nghệ tươi và băng bó qua loa. Vài hôm sau, ngón chân sưng to, tê buốt, chảy dịch vàng, tôi đến viện Da liễu Hà Nội khám mới biết, chân bị "chín mé" nặng, bị nhiễm trùng, nếu không điều trị kịp thời sẽ dẫn đến hoại tử phải tháo khớp, cắt bỏ ngón chân. Do đó, việc vẽ móng theo kiểu “nail dạo” tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ nhiễm bệnh do kỹ thuật làm nail không đảm bảo. Trong khi cắt hoặc giũa móng tay, thợ dạo có thể gây ra những vết thương, dẫn đến nhiễm trùng". Những kìm tỉa da, cắt móng, giũa, bàn xát mài cục chai, khăn được sử dụng chung cho những khách làm móng. Vấn đề đảm bảo vệ sinh, công đoạn khử trùng hầu như không có. Bất kể lúc nào khách cũng phải đối mặt với nguy cơ những vật dụng này cắt vào da làm chảy máu và ngay lập tức đưa vi khuẩn vào cơ thể. Đây là nguyên nhân gây ra bệnh chín mé - bệnh nhiễm trùng tạo mủ hoặc áp xe ở đầu mút các ngón tay, ngón chân. Nếu không được chữa trị kịp thời, giữ vệ sinh thì bệnh có thể gây những biến chứng như viêm xương, viêm bao hoạt dịch, viêm khớp hoặc nhiễm khuẩn huyết, có thể dẫn tới tử vong. Với những trường hợp để quá muộn, khi nhiễm trùng đã hoại tử, có thể sẽ phải tháo khớp hoặc cắt bỏ ngón tay để bảo đảm tính mạng. Có thể sinh con quái thai Ngoài ra, theo khuyến cáo của các chuyên gia da liễu, các hóa chất trong sơn móng tay rẻ tiền và các loại móng nhựa giả, nước tẩy móng như benzen, toluen... đều là các chất gây nhiễm độc. Benzen là loại dung môi hữu cơ, bay hơi nhanh, được hấp thụ qua đường hô hấp, sau đó lưu tại gan, tuỷ sống và các tế bào mỡ. Benzen còn ảnh hưởng tới thần kinh, làm cho người tiếp xúc choáng váng, giảm trí nhớ, nếu hít phải liên tục trong thời gian dài, sẽ gây hại phổi, có thể dẫn tới ung thư. Còn chất toluen, hít phải thường xuyên sẽ gây độc trực tiếp, đặc biệt phụ nữ đang mang bầu có thể sinh con quái thai. Toluen ít tan trong nước, được phân bố nhanh vào các mô tế bào não, gan, thận... Theo Thanh Hòa Người Đưa Tin
Bàn tay có 5 ngón, trong đó ngón cái là quan trọng nhất, chiếm tới 50% chức phận của bàn tay. Nếu bàn tay bị khuyết đi ngón tay cái, không chỉ gây khó khăn trong lao động và sinh hoạt hàng ngày, mà còn gây ảnh hưởng lớn đến tinh thần. Phục hồi lại ngón tay cái, luôn được đặt ra trong điều trị di chứng tổn thương mất ngón do chấn thương cũng như dị tật bẩm sinh. Hiện nay, có nhiều phương pháp phục hồi ngón tay cái. Mỗi phương pháp đều có ưu, nhược điểm riêng biệt. Lựa chọn một phương pháp hợp lý chủ yếu được căn cứ vào mức độ tổn thương mất ngón hay nói cách khác là vị trí mỏm cụt và tổn thương ở bàn tay, nghề nghiệp và những hoạt động thường ngày trong sinh hoạt của bệnh nhân. Phân loại tổn thương ngón tay cái Phân loại tổn thương ngón tay cái được căn cứ vào vị trí mỏm cụt, đây là yếu tố chính liên quan tới lựa chọn phương pháp điều trị. Theo Campbell Reid DA, tác giả phân thành 4 nhóm như sau Nhóm 1 Mỏm cụt ở phía dưới khớp đốt bàn – ngón tay, phần còn lại có thể là một phần đốt 1 hoặc toàn bộ đốt 1, một phần đốt 2 hoặc toàn bộ đốt 2. Ở nhóm này, độ dài ngón cái là đủ để đáp ứng yêu cầu về chức phận, nếu da che phủ đầu mỏm cụt tốt thì không cần phẫu thuật phục hồi ngón. Nhóm 2 Mỏm qua khớp đốt bàn – ngón tay hoặc thấp hơn nhưng độ dài còn lại không thoả đáng để đảm bảo cho chức phận. Với tổn thương ở nhóm 2, chức phận sẽ được cải thiện hơn nếu ngón được làm dài. Tuy nhiên, không phải bệnh nhân nào cũng đồng ý với phẫu thuật làm dài ngón mà sẵn sàng chấp nhận một phương pháp thay thế không phức tạp, đó là đốt hoá ngón bằng cách mở rộng kẽ ngón I – II hoặc ghép thêm xương khi da ở đầu mỏm cụt đảm bảo che phủ thỏa đáng sau tạo hình. Nhóm 3 Mỏm cụt qua đốt bàn, còn lại một số cơ ô mô cái. Nhóm 4 Mỏm cụt qua khớp đốt bàn – xương tụ cốt cổ tay. Với nhóm 3 và nhóm 4, tổn thương đều là mất toàn bộ ngón tay, gây ảnh hưởng quan trọng tới chức năng của bàn tay nên phục hồi lại ngón tay luôn được đặt ra. Hầu hết những trường hợp dị tật mất ngón tay cái bẩm sinh đều thuộc nhóm 4. Theo Michel M và Gilles D, các tác giả phân loại chi tiết hơn, đó là Mức 1 Tổn thương ở phía dưới khớp liên đốt ngón, gồm có mức 1a cụt qua phần mềm đầu mút của ngón, mức 1b cụt dưới nền móng, mức 1c cụt trên nền móng, mức 1d cụt qua khớp liên đốt ngón. Mức 2 Mỏm cụt đốt 1, còn khớp đốt bàn – ngón tay. Mức 3 Mỏm cụt khớp đốt bàn – ngón tay. Mức 4 Mỏm cụt đầu đốt bàn. Mức 5 Mỏm cụt nền đốt bàn, còn khớp thang – bàn. Mức 6 Mỏm cụt qua khớp giữa xương thang và xương thuyền. Mức 7 Gồm mức 7a cụt qua các xương khối tụ cốt cổ tay, mức 7b cụt qua khớp quay – tụ cốt cổ tay. Hiện nay, cả hai cách phân loại trên đều được sử dụng. Tuy nhiên, trong phẫu thuật tái tạo ngón cái, phân loại của Campbell Reid DA thường được sử dụng. Phân loại của Michel M và Gilles D lại được sử dụng nhiều trong phục hồi ngón tay cái nói chung, trong đó có cả tạo hình khuyết da ở đầu mút ngón tay. Mục đích phẫu thuật phục hồi Khi cụt mất ngón tay cái, theo Tanzer RC và Littler JW, mục đích điều trị là phục hồi lại ngón sao cho đáp ứng được 4 yêu cầu sau Gấp và duỗi thoả đáng để thực hiện động tác cầm nắm. Có khả năng đối chiếu đầu mút của ngón cái với 1 – 2 ngón khác. Đầu mút của ngón phải có cảm giác xúc giác. Tuy là ít quan trọng nhưng hình dáng phải chấp nhận được. Theo một số tác giả khác, như Lee WM và Mark TJ, mục đích điều trị là Thứ nhất, ngón phải có cảm giác, có thể không được như bình thường nhưng không đau và phải biết được đồ vật đang cầm nắm. Đây là yêu cầu quan trọng nhất. Thứ hai, ngón phải vững chắc, đảm bảo khi cầm nắm không gây biến dạng khớp, lớp da không bị xô trật. Thứ ba, vận động thỏa đáng, bàn tay có thể phẳng ra và ngón tay cái đối chiếu được với ngón khác để thực hiện động tác cầm nắm. Thứ tư, ngón cái đủ dài để với tới đầu mút các ngón tay khác. Đôi khi, có thể cắt cụt hoặc đóng cứng khớp của ngón còn lại hơn là tập trung làm dài ngón tay cái để đảm bảo cho động tác cầm nắm. Thứ năm, yêu cầu thẩm mỹ phải chấp nhận được. Nếu không, ngón thường bị giấu và ít được sử dụng. Các phương pháp phẫu thuật phục hồi 1. Phương pháp phục hồi kinh điển – Mở sâu kẽ xương bàn I – II Từ năm 1874 Hugier PC đã tạo hình vạt da chữ Z để mở rộng và làm sâu kẽ ngón nhằm ngón hóa xương bàn I. Phương pháp được chỉ định cho những trường hợp không hẹp khít và da vùng kẽ ngón lành lặn. Với những trường hợp kẽ ngón hẹp khít, không có chỉ định cho tạo hình chữ Z, có thể xẻ dọc để mở rộng kẽ ngón, sau đó sử dụng vạt da tại chỗ lấy từ vùng mu bàn tay để che phủ kẽ ngón. Khuyết lấy vạt được ghép da xẻ đôi. Sử dụng cố định ngoài để giữ kẽ ngón không bị co hẹp, để cố định trong 3 tuần. Với phương pháp này, biên độ vận động của xương đốt bàn I được cải thiện, nhất là những trường hợp mỏm cụt qua khớp liên đốt ngón hoặc phần xa của đốt 1. – Kéo dài xương đốt bàn I Phương pháp được Matev I báo cáo vào năm 1967. Xương đốt bàn I được kéo dài đủ để các ngón tay khác với tới. Do đó, chức năng cầm nắm, nhón nhặt của bàn tay được cải thiện. Phương pháp có ưu điểm là vẫn giữ lại các ngón tay dài, thường được chỉ định cho bệnh nhân cao tuổi khi không có chỉ định chuyển ngón chân. Nhược điểm của phương pháp này là ngón không có khớp, không có móng, không chỉ định cho kéo dài ở đốt ngón, phải theo dõi chặt chẽ trong thời gian dài của quá trình kéo dài xương và yêu cầu phần mềm của đốt bàn ngón phải tốt. Phương pháp được chỉ định cho cụt mức 1c, 2, 3, 4 và chủ yếu là cụt qua khớp đốt bàn – ngón theo phân loại của Michel M và Gilles D. – Phục hồi tạo hình xương Osteoplastic Reconstruction Phục hồi ngón cái bằng ghép xương rồi che phủ bởi trụ da kinh điển được Nicoladoni C thực hiện năm 1897. Trụ da thường được lấy từ thành bụng hoặc vùng cùng – ngực vì da vùng đó có cấu trúc tốt và ít tổ chức mỡ. Chu vi ngón cái bình thường khoảng 3 inches 7,62 cm và vì thế bề rộng của vạt da để tạo trụ là 3,5 inches 9,89 cm. Nhược điểm của phương pháp là phải qua nhiều lần mổ, gặp khó khăn khi kết ghép xương vào vùng nhận, xương ghép thường bị tiêu do không được nuôi thỏa đáng hoặc do nhiễm khuẩn. Ban đầu, ngón không có cảm giác, sau khoảng 6 tháng đến 1 năm thì có cảm giác xúc giác và đau khi châm kim, nhưng không có cảm giác lập thể. Ngoài ra, tuần hoàn của ngón nghèo nàn, da bị rối loạn dinh dưỡng, sẫm màu và thường có loét với các mức độ khác nhau. 2. Phương pháp cái hóa Phương pháp cái hóa là phẫu thuật chuyển toàn bộ hoặc một phần ngón tay dài sang vị trí ngón tay cái. Đây là phương pháp phục hồi tiến bộ, vì ngón cái có khớp và có cảm giác. Từ năm 1887, Guermonprez F đã mô tả kỹ thuật sử dụng một ngón tay bị tổn thương chuyển sang vị trí ngón tay cái bị dập nát. Trong thế chiến 2, càng có nhiều nghiên cứu điều trị loại tổn thương này cho thương binh… Cuthbert JB là người đầu tiên sử dụng ngón trỏ bình thường để cái hóa. Phẫu thuật được thực hiện cho trường hợp tổn thương mất hoàn toàn ngón tay cái, phần mỏm cụt còn lại không còn phần cơ nào đáng kể. Nhược điểm chính của phẫu thuật cái hóa ngón trỏ còn lành lặn là ngón cái được phục hồi dài hơn ngón cái bình thường và có tới 3 đốt ngón. Để khắc phục nhược điểm này, Cuthbert JB đã thu ngắn đốt 1 và đốt 2 mà không phải can thiệp vào khớp và gân. Bước phát triển tiếp theo của phẫu thuật cái hóa là không chỉ cố định vào việc chuyển ngón trỏ mà là chuyển một ngón tay nào đó trên bàn tay ở dạng hình đảo. Việc lựa chọn ngón để chuyển phụ thuộc vào tình trạng mạch máu nuôi ngón. Phương pháp cái hóa có ưu điểm là tạo được ngón tay cái có chức năng vận động và cảm giác rất tốt. Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp là phải sử dụng một ngón tay dài, bàn tay vẫn thiếu ngón, ngón cái được tạo vẫn là nhỏ và lực nhón nhặt, đối chiếu không khỏe. Hơn nữa, vì thiếu ngón tay nên không phục hồi được sức nắm, bóp, vặn xoắn của bàn tay. Phương pháp không có chỉ định trong trường hợp bàn tay bị tổn thương nặng nề, gây xơ sẹo, mạch máu bị tổn thương hoặc nằm trong khối sẹo xơ, gây khó khăn cho phẫu tích bóc tách lấy ngón. 3. Chuyển ngón chân Năm 1900, Carl Nicoladoni báo cáo kết quả 3 trường hợp chuyển ngón chân phục hồi ngón tay cái theo nguyên lý chuyển vạt từ xa kinh điển, dạng chéo tay – chân; là tiền đề cho chuyển ngón chân ở dạng tự do bằng kỹ thuật vi phẫu sau này. 4/1968, Cobbett JR thành công trên lâm sàng chuyển ngón chân phục hồi ngón tay cái, đánh dấu bước phát triển mới của phẫu thuật phục hồi ngón tay cái cũng như các ngón tay dài. Đây là phương pháp phục hồi hiện đại, tạo nên ngón tay có chức năng vận động, cảm giác và thẩm mỹ đối với bàn tay bị mất một ngón tay cái. Phương pháp đặc biệt ưu việt trong trường hợp mất ngón tay cái có kèm theo tổn thương mạch máu, gân, xương vùng bàn tay dẫn đến không có chỉ định phẫu thuật cái hoá và trường hợp cụt nhiều ngón tay dài. Ngón chân được chuyển có thể là ngón chân cái, ngón chân thứ hai hoặc nhiều ngón chân. Điều này phụ thuộc vào vị trí, mức độ tổn thương giải phẫu của ngón tay cái và tổn thương ở bàn tay, nghề nghiệp và ý muốn chủ quan của bệnh nhân. Trong phẫu thuật này, tất cả những thành phần của ngón chân đều được nối ghép với những thành phần tương ứng ở nơi nhận, đó là xương, gân gấp, gân duỗi, động mạch, tĩnh mạch, thần kinh cảm giác phía gan, thần kinh cảm giác phía mu nên bộ não nhanh chóng nhận ra ngón chuyển như một ngón bình thường ở bàn tay, bệnh nhân nhanh thích nghi và sử dụng ngón trong các hoạt động chức phận. Nhược điểm của phương pháp là gây thiếu đi ngón chân, để lại ảnh hưởng nhất định ở nơi cho và nhất là khi lấy toàn bộ ngón chân cái. Khi chuyển toàn bộ ngón chân cái, ngón chân to hơn ngón tay nên gây thiếu thẩm mỹ. Để khắc phục nhược điểm này, bác sĩ sẽ bóc tách để lại một dải phần mềm ở đầu mút và bờ trong của ngón chân, đồng thời lấy bỏ bớt phần móng, da, xương… đủ để làm giảm kích thước của ngón chân cái bằng ngón tay cái. Ở Việt Nam, Nguyễn Huy Phan đã thành công chuyển ngón chân thứ hai ghép phục hồi ngón tay cái từ năm 1988, đánh dấu một bước phát triển mới trong phẫu thuật phục hồi ngón tay ở nước ta. Từ năm 1994, học trò của GS Phan là Nguyễn Việt Tiến và cộng sự đã tiến hành chuyển ngón chân phục hồi ngón tay cái hoặc ngón tay dài, hiện đã là phẫu thuật thường quy. 4. Vạt có nối mạch nuôi cuốn quanh xương ghép microvascular wrap around flap Năm 1980, Morrison WA báo cáo phẫu thuật sử dụng vạt da có mạch máu – thần kinh được lấy từ ngón chân cái để cuốn quanh mảnh xương mào chậu rồi ghép vào mỏm cụt ngón tay cái. Vùng cho vạt được ghép da. Phẫu thuật này cho phép tạo ngón tay cái có kích thước to bằng ngón bình thường và nơi cho ít bị ảnh hưởng. Tuy thế, nhược điểm của phương pháp là ngón được tạo không có khớp liên đốt ngón và tình trạng không liền xương hoặc gãy xương ghép là phổ biến. Kỹ thuật chuyển ngón chân – Phương pháp phục hồi hiện đại 1. Chỉ định, chống chỉ định Chỉ định Mất ngón tay cái, gồm một phần hoặc toàn bộ do chấn thương hoặc dị tật bẩm sinh. Chống chỉ định Tổn thương dập nát nặng ở bàn tay gây cụt hết các ngón tay hoặc nếu còn nhưng không có chức phận, mạch máu, thần kinh bị tổn thương nặng. Bệnh nhân tâm thần, không phối hợp điều trị Bệnh nhân cao tuổi, vữa xơ động mạch, hoại tử ngón do viêm tắc động mạch, cắt cụt ngón do Gout. 2. Chuẩn bị trước mổ Lựa chọn ngón chân trước khi phẫu thuật Có thể là ngón chân cái hoặc ngón chân thứ hai. Hai ngón chân này đều có những ưu, nhược điểm khác nhau về chức phận và thẩm mỹ. Việc lựa chọn ngón chân nào được căn cứ vào vị trí mỏm cụt, mức độ tổn thương của ngón tay, tổn thương của bàn tay, nghề nghiệp cụ thể của bệnh nhân cũng như kết quả thẩm mỹ ở bàn tay và bàn chân sau phẫu thuật. Về chức phận, lựa chọn ngón chân cái là hợp lý khi cần bề mặt làm việc rộng, vững chắc để cầm nắm. Lựa chọn ngón chân thứ hai là phù hợp khi cần ưu tiên động tác nhón nhặt chính xác và khả năng đánh manip. Sức mạnh của động tác nhón nhặt giữa chuyển ngón chân cái và ngón chân thứ hai là tương đương nhau, bằng 80% so với bàn tay bình thường. Tuy nhiên, khả năng và lực của động tác nhón nhặt này phụ thuộc vào các cơ ô mô cái và phần còn lại của xương đốt bàn I ở nơi nhận. Về thẩm mỹ, lấy ngón chân cái tại khớp đốt bàn – ngón sẽ ít có rối loạn về chức phận nhưng ảnh hưởng tới thẩm mỹ ở bàn chân. Nếu lấy cao hơn thì không chỉ ảnh hưởng tới thẩm mỹ mà còn ảnh hưởng tới cả chức phận. Trường hợp lấy ngón chân thứ hai và cắt cao đốt bàn II, sau đó khâu hẹp kẽ ngón chân cái với ngón chân thứ ba thì biến dạng thẩm mỹ ở bàn chân là rất hạn chế. Độ dài của ngón chân theo yêu cầu phục hồi liên quan nhiều tới việc lựa chọn ngón. Khi chuyển ngón chân thứ hai mà phải lấy tới cả khớp đốt bàn – ngón thì có tới 3 khớp. Và do không có vận động riêng biệt cho từng khớp nên ngón chuyển không vững. Trong khi đó, ngón chân cái chỉ có 1 khớp liên đốt ngón, có thể chuyển cả khớp đốt bàn – ngón nên đem lại sự vững chắc cho vận động nhón nhặt. Tuy nhiên, khi đầu xương đốt bàn I được lấy theo sẽ để lại ảnh hưởng quan trọng về chức năng và thẩm mỹ tại bàn chân. Để phần nào khắc phục di chứng này, May JW chỉ lấy 1/2 phía lưng đầu xương bàn I, vẫn giữ lại phần gan đầu xương đốt bàn để tăng độ vững của vòm bàn chân khi tỳ nén. Kế hoạch trước mổ Khám bàn tay để đánh giá tổn thương, sự mềm mại của khớp và phần mềm, khả năng phục hồi chức phận, tình trạng động mạch, tĩnh mạch, thần kinh, cấu trúc xương, các gân gấp và gân duỗi. Thêm nữa, xác định sự thiếu hụt phần mềm cần phải phục hồi. Đồng thời, cũng cần khám xét chi dưới, gồm tiền sử chấn thương, toàn bộ khung xương, mạch máu và thần kinh cảm giác, thần kinh vận động. Đặc biệt, chú ý tới động mạch mu chân. Hiện nay, việc khảo sát giải phẫu mạch máu vùng bàn chân cho ngón của mỗi bệnh nhân trước mổ bằng chụp cắt lớp vi tính mạch máu có giá trị rất thiết thực. Sau khi lựa chọn ngón chân cái hoặc ngón thứ hai, bước tiếp theo là làm kế hoạch cho can thiệp các cấu trúc trong mổ, gồm động mạch, tĩnh mạch, thần kinh, gân, xương, khớp, da. Xác định vị trí nối động mạch, tĩnh mạch, căn cứ vào đó để lựa chọn ngón bên chân phải hay trái cho phù hợp, sao cho mạch máu của ngón chân đi thẳng tới mạch nhận. 3. Kỹ thuật chuyển ngón chân thứ hai Phẫu tích lấy ngón chân theo Manktelow RT. Ngón phải có đủ động mạch, tĩnh mạch và thần kinh cảm giác phía mu và phía gan, gân duỗi dài và gân gấp dài với độ dài cần thiết. Mỏm cụt ngón tay cái được phẫu tích chuẩn bị đầy đủ các cấu trúc như khi phẫu tích lấy ngón chân có thể đồng thời nếu có 2 kíp mổ, gồm mỏm cụt xương, động mạch, tĩnh mạch và thần kinh cảm giác phía mu và phía gan, gân duỗi dài và gấp dài ngón tay cái. Nếu gân duỗi dài ngón cái không sử dụng được thì phẫu tích lấy gân duỗi riêng ngón tay trỏ, trường hợp gân gấp dài ngón cái bị giằng giật thì phẫu tích lấy gân gấp nông ngón giữa hoặc gấp nông ngón nhẫn để thay thế. Khi vị trí khâu nối các thành phần và độ dài của ngón chân đã được xác định, tiến hành cắt xương qua đốt 1 của ngón chân và đầu xương đốt bàn ngón tay cái, cắt các thành phần khác, chú ý cắt bằng hai mặt xương. Sau đó, đặt ngón chân trên mỏm cụt ngón tay cái ở vị trí đối chiếu. Cố định xương bằng hai mối chỉ thép khâu qua xương hoặc một mối chỉ thép và 1 đinh Kirschner xuyên chéo. Tiếp theo, xuyên thêm một đinh Kirschner dọc trục để giữ cho ngón chân duỗi hoàn toàn. Đinh này để trong 4 tuần để hạn chế khuynh hướng gấp hoặc thói quen gấp ngón chân. Khâu gân duỗi dài, gấp dài ngón chân với gân duỗi dài và gấp dài ngón tay cái. Chú ý chỉnh độ căng của các gân. Độ căng lý tưởng của các gân tương tự như gân của ngón cái bình thường. Sau đó, nối đầy đủ các thành phần khác Nối tĩnh mạch tận – tận. Nếu các tĩnh mạch nhỏ hơn động mạch thì thực hiện nối hai tĩnh mạch Nối động mạch, thường thì nối kiểu tận – bên với động mạch quay. Khâu nối thần kinh phía mu ngón chân vào nhánh thần kinh quay. Khâu da phía mu của ngón trước khi chuyển sang khâu nối thần kinh phía gan tay. Khâu nối thần kinh phía gan ngón tay. Khâu da mặt gan ngón tay. Cố định khớp cổ tay ở tư thế trung bình. Ghi chú Trường hợp chuyển ngón chân thứ hai cho tổn thương ngón cái thuộc nhóm 2 và nhóm 3 theo phân loại của Campbell Reid DA, GS Nguyễn Việt Tiến sử dụng khớp đốt bàn – ngón chân, tạo rãnh ở xương đốt bàn ngón tay và kết hợp xương đốt bàn ngón chân với đốt bàn ngón tay theo kiểu bên – bên lồng cắm bằng buộc 2 vòng dây thép. 4. Kỹ thuật chuyển ngón chân cái Về cơ bản, chuyển ngón chân cái tương tự như chuyển ngón chân thứ hai, nhưng có một số điểm khác như sau Thiết kế đường rạch da để thu nhỏ móng chân, thu nhỏ xương và lấy da có hình tam giác ở phía mu và phía gan ngón chân. Tạo vạt da ở phía trong bàn chân để che phủ mỏm cụt sau khi lấy ngón. Đường rạch phía gan theo hình cong, dọc theo kẽ đầu xương đốt bàn I – II sao cho sẹo vết mổ không nằm ở phần tỳ đè của bàn chân. Nếu ngón tay cái bị cụt trên khớp đốt bàn – ngón thì lấy khớp đốt bàn – ngón chân thay cho khớp đốt bàn – ngón tay cái. Để lấy khớp đốt bàn – ngón chân có chức năng đồng thời để lại độ dài thỏa đáng ở phía gan đầu xương đốt bàn I, thực hiện cắt xương tại vùng đầu xương bàn theo góc 45o chếch về phía mu như May JW mô tả. Khi ghép ngón vào nền nhận, nếu mỏm cụt tại nền đốt 1 của ngón tay cái, thực hiện kết xương của mỏm cụt này với đốt 1 của ngón chân bằng hai mũi khâu qua xương. Nếu cần, có thể tăng cường thêm một đinh Kirschner xuyên chéo. Cũng đặt thêm đinh Kirschner xuyên dọc trục để giữ khớp liên đốt của ngón chân duỗi thẳng. Nếu bệnh nhân là trẻ em, phẫu thuật giữ phần sụn tiếp ở đầu gần của đốt 1 ngón chân. Khi đó, chỉ lấy bỏ lớp sụn mặt khớp của đốt 1 ngón chân và kết xương bằng đinh Kirschner xuyên dọc, không khâu qua xương để tránh gây tổn thương sụn tiếp. Nếu mỏm cụt qua thân đốt bàn ngón tay cái, cần chuyển ngón chân bao gồm cả khớp đốt bàn – ngón. Khi đó, đặt ngón chân vào mỏm cụt theo tư thế đối chiếu ở vị trí đã thiết kế, kiểm tra và sửa sao cho mặt cắt nghiêng của đầu xương đốt bàn ngón chân khít với mặt cắt ngang của xương đốt bàn ngón tay cái. Để không gây ảnh hưởng tới vận động tại khớp đốt bàn – ngón chân, chỉ đặt hai mũi chỉ thép khâu qua thành xương và đặt thêm đinh Kirschner xuyên dọc trục. Khâu gân duỗi, gân gấp. Chỉnh độ căng của gân bằng cách sờ trên gân, đồng thời gấp cổ tay và quan sát vận động thụ động của ngón tay cái mới tái tạo tại khớp cổ tay – xương bàn. Khâu mạch máu, thần kinh. Khâu da và cố định nẹp bột như trong chuyển ngón chân thứ hai. 5. Phục hồi chức năng sau phẫu thuật Vật lý trị liệu và tập phục hồi chức năng sau mổ là rất quan trọng. Bao gồm vận động chủ thụ động và chủ động. Bắt đầu từ tuần thứ 3 – 4 sau mổ, bệnh nhân sẽ được tháo bỏ đinh Kirschner xuyên dọc trục và tập vận động để tránh cứng khớp. Việc cố định ổ kết hợp xương cụ thể sẽ quyết định mức độ của chương trình luyện tập. Sau đó, khi đã liền xương và tái phục hồi thần kinh, bác sĩ sẽ tư vấn những động tác tập luyện có sức đối kháng và có chương trình tập luyện về cảm giác cho ngón tay mới. Sau chấn thương gây mất ngón tay cái hoặc ngón tay dài, bệnh nhân đều cố gắng thích nghi với tổn thương, cố gắng phục hồi lại những động tác bình thường của bàn tay với khả năng cao nhất có thể. Do đó, khi lựa chọn phương pháp phục hồi, phẫu thuật viên cùng bệnh nhân cần đánh giá vị trí mỏm cụt và mức độ mất chức năng gây ảnh hưởng đến công việc riêng biệt, cũng như sinh hoạt trong cuộc sống, từ đó lựa chọn phẫu thuật phục hồi sao cho phù hợp nhất với mỗi bệnh nhân.
Hiện nay, các bệnh về xương khớp đang ngày càng gia tăng về số lượng cũng như dần trẻ hóa về độ tuổi. Trong đó, thoái hóa khớp bàn ngón cái gây ảnh hưởng đến vận động và để lại biến chứng nguy hiểm. Để tránh những tác hại trên, cần sớm nhận biết dấu hiệu để nhanh chóng tìm cách điều trị. 1. Thoái hóa khớp ngón chân là bệnh lý như thế nào? Thoái hóa khớp bàn ngón cái là quá trình lão hóa của tổ chức khớp và các tế bào xung quanh khớp, đặc biệt là ở sụn khớp. Bệnh lý này hay gặp ở những người lớn tuổi do mất cân bằng tổng hợp và hủy hoại sụn cũng như xương dưới sụn. Thay đổi sinh hóa, phân tử, hình thái, cơ sinh học của các tế bào và chất cơ bản của sụn chính là những biểu hiện cuối cùng. Điều này dẫn đến các tình trạng như nứt loét, xơ hóa xương dưới sụn, nhuyễn hóa, mất sụn khớp, tạo gai xương và hốc xương dưới sụn ở khớp ngón chân hóa khớp ở ngón chân cái là một trong những dạng viêm khớp bàn ngón cái thường gặp nhất, nguyên nhân chủ yếu là do tuổi tác gây lão hóa khớp. Tuy nhiên, các yếu tố sau cũng có thể dẫn đến bệnh lý nàyTác động từ công việc nặng Những việc như mang vác, di chuyển đồ vật nặng thường khiến bàn chân và ngón chân chịu áp lực lớn. Đồng thời, làm việc lâu ngày với cường độ nặng dễ làm các khớp bị ảnh hưởng và yếu đi. Dần dần tình trạng viêm, đau nhức sẽ xuất hiện và khiến khớp bị thoái thương Vận động mạnh khi chơi các môn thể thao dùng chân như chạy, nhảy, bật xa,... thường xuyên và quá sức cũng dễ gây thoái truyền Gia đình có thế hệ trước bị thoái hóa khớp bàn ngón cái thì thế hệ sau sẽ có nguy cơ mắc bệnh này cao hơn người phì, thừa cân Trọng lượng cơ thể nặng nề không chỉ gây khó khăn cho việc đi đứng mà còn gây ra áp lực cho bàn chân và ngón chân, từ đó dễ gây thoái hóa khớp. Thoái hóa khớp bàn ngón cái không chỉ là nguyên nhân của các cơn đau mà còn gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm. Việc nhận biết các dấu hiệu sớm sẽ giúp người bệnh kịp thời điều trị và tránh được những tác hại khó lường sau. Dưới đây là những biểu hiện thường gặp của bệnh lý nàyCứng khớp Các khớp ở chân sẽ xuất hiện tình trạng tê bì thường gặp vào buổi sáng khiến các vận động không được linh hoạt, thoải nhức Đây là triệu chứng phổ biến khi bị viêm khớp bàn ngón chân. Thường thì người bệnh sẽ cảm nhận được những cơn đau nhức âm ỉ từ chỗ khớp ngón chân cái. Giai đoạn nhẹ chỉ cảm nhận được cơn đau khi vận động và tan biến rất nhanh, dần dần khi nặng hơn thì cơn đau cũng sẽ dữ dội và lâu đỏ Ở giai đoạn nặng và bệnh đã kéo dài thì chỗ khớp sẽ bị nóng đỏ và sưng tấy yếu Khớp ở ngón chân khi bị thoái hóa sẽ gây ảnh hưởng đến việc di chuyển bởi vì chân khó chống đỡ cơ thể hơn bình những dấu hiệu biểu hiện ngay khớp ở ngón chân cái thì người bệnh có thể gặp những triệu chứng nhưNhức cơ Các cơ trên cơ thể sẽ bị đau nhức ở mức độ nhẹSốt Một vài trường hợp bị thoái hóa khớp ngón chân cái xuất hiện tình trạng sốt nhẹ và mệt mỏiThiếu máuNgón chân xuất hiện tình trạng quặp lạiMóng chân dễ bị rỗ, dày và bong tróc, ảnh hưởng đến thẩm mỹCả bàn chân hay đau nhức. Thoái hoá khớp bàn ngón cái có thể khiến cả bàn chân hay đau nhức 3. Những biến chứng thường gặp thoái hóa khớp ngón chân cái Thoái hóa khớp bàn ngón cái nếu không được điều trị kịp thời có thể dẫn đến nhiều biến chứng như chết xương, biến dạng ngón chân, gãy xương do căng thẳng, sụn khớp bị phá hủy hoàn toàn khiến khớp ngón chân lỏng lẻo, chảy máu trong khớp, suy thoái hoặc đứt gân và dây chằng quanh khớp, nhiễm trùng khớp...Ngoài ra, thoái hóa bàn khớp ở ngón chân cái còn là bệnh có thể tiến triển và gây ra những tổn thương vĩnh viễn khó khắc phục như cắt cụt ngón chân, đau mãn tính và tổn thương thần kinh vĩnh viễn. 4. Phương pháp điều trị thoái hóa khớp ngón chân cái Với căn bệnh này, việc phát hiện và điều trị kịp thời để tránh những biến chứng xấu có thể xảy ra là vô cùng cần thiết. Hiện nay, điều trị thoái hóa khớp ở ngón chân cái có các phương pháp sauPhương pháp vật lý trị liệu phục hồi chức năng với sự hỗ trợ của các thiết bị hiện trị cơ SCC Hỗ trợ giảm viêm, đau khớp, tăng tái tạo ở vùng bị tổn thương, giúp thiết lập lại cân bằng tổng hợp và hủy hoại của sụn và xương dưới trị bảo tồn Người bệnh sẽ dùng thuốc kháng viêm theo chỉ định và nẹp chỉnh thuật Nên cân nhắc phẫu thuật nếu điều trị bảo tồn thất bại. Phẫu thuật sẽ giúp chỉnh sửa lại các bất thường về xương, giúp các vận động trở nên dễ dàng hóa khớp bàn ngón cái không chỉ xảy ra ở người lớn tuổi mà cả người trẻ cũng có nguy cơ mắc phải. Việc nhận biết sớm các dấu hiệu của bệnh lý này sẽ giúp người bệnh tránh được các biến chứng nguy hiểm cũng như những tổn thương vĩnh viễn. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. XEM THÊM Công dụng thuốc Mekofenac Thuốc Requip Công dụng, chỉ định và lưu ý khi dùng Công dụng thuốc Xadago
hoại tử ngón chân cái