hoàng tử tất đạt đa
Gia phả hậu duệ dòng họ Lý tại Hàn Quốc mà phóng viên Tuổi Trẻ có được cho biết vào mùa thu năm 1226, hạm đội của Lý Long Tường đã tấp vào cửa biển Ongjin-gun (Khang Linh), tỉnh Hwanghae (Hoàng Hải) thuộc phía đông bắc bán đảo Triều Tiên. Toàn bộ đoàn thuyền còn hơn
Tử vi hôm nay ngày 6/10/2022 của 12 cung hoàng đạo - Ma Kết, Bảo Bình, Song Ngư, Bạch Dương, Kim Ngưu, Song Tử, Cự Giải, Sư Tử, Xử Nữ, Thiên Bình. Tử vi cung Ma Kết (22/12 - 19/1) Sự nghiệp: Cung hoàng đạo này sắp tới cần phải có sự chuẩn bị tốt hơn trong công việc, đừng để người khác phải soi mói bạn nữa.
Siddhartha (Tất Đạt Đa) Tác giả: Hermann Hesse. Nhà xuất bản Công Ty Văn Hoá Truyền Thông Nhã Nam & Nhà xuất bản Văn Học ấn hành. Hoàng tử lai - J.K.Rowling - Tiểu Thuyết; Thể Loại. Hạt Giống Tâm Hồn 215; Kỹ Năng Cuộc Sống 151;
Evay Vay Tiền. Bài viết này có một danh sách nguồn tham khảo nhưng thông tin trong bài vẫn chưa thể được xác thực vì thiếu chú thích trong bạn giúp cải thiện bài viết này bằng cách bổ sung cước chú vào các đoạn thích hợp. Bài viết hoặc đoạn này cần thêm chú thích nguồn gốc để có thể kiểm chứng thông nội dung không có nguồn có thể bị đặt vấn đề và xóa bỏ. Mời bạn bổ sung chú thích từ các nguồn đáng tin cậy để giúp cải thiện bài viết. No Title No Title No information Tất-đạt-đa Cồ-đàm là tên phiên âm từ tiếng Phạn Siddhārtha Gautama của vị Phật lịch sử Thích-ca Mâu-ni. Tất-đạt-đa sa. siddhārtha có nghĩa là "người đã hoàn tất siddha ý nghĩa [cuộc sống] artha". Đôi lúc ta cũng tìm thấy cách dịch ý Nhất thiết nghĩa thành, Thành tựu chúng sinh dịch từ dạng dài của tên Phạn ngữ là sarvārthasiddha. Như vậy Tất-đạt-đa Cồ-đàm là tên của vị Phật lịch sử, từng sống trên trái đất, người sáng lập Phật giáo. Ngài cũng còn được gọi là Phật Tổ Như Lai. Cuộc đời[] Bối cảnh và gia thế[] Tập tin Nhà tiên tri Asita, tiên đoán vận mệnh thái tử. Tất-đạt-đa sinh khoảng năm 624 trước Công nguyên trong một gia đình hoàng tộc thuộc dòng Thích-ca sa. śākya tại Ca-tì-la-vệ zh. 迦毘羅衛, sa. Kapilavastu thuộc Nepal ngày nay. Cha của Tất-đạt-đa là vua Tịnh Phạn zh. 淨飯, sa. śuddhodana, mẹ là hoàng hậu Ma-da sa., pi. māyādevī, đản sinh Tất-đạt-đa trong khu vực vườn Lâm-Tỳ-Ni zh. 嵐毘尼, sa. lumbinī, một thị trấn thuộc Ấn Độ. Đây là khu vực nằm giữa dãy Hi-mã-lạp sơn sa. himālaya và sông Hằng sa gaṅgā, chịu ảnh hưởng khí hậu gió mùa tháng 5 có thể nóng tới 40 °C, trong mùa đông nhiệt độ xuống tới 3 °C. Về mặt chính trị vùng đồng bằng sông Hằng thời đó có 4 vương quốc chính là Kiêu-tát-la zh. 憍薩羅, sa. kośala, pi. kosala, thủ đô là Xá-vệ 舍衛, sa. śrāvastī, pi. sāvatthī nằm về phía bắc sông Hằng. Tiểu quốc Vaṃsā nằm phía Tây nam Kiêu-tát-la. Tiểu quốc Avanti ở miền nam của Vaṃsā và Kiêu-tát-la, trải dài tới phía nam sông Hằng. Sau này, có Ma-ha-ca-chiên-diên là một người dân nước này là đại đệ tử của đức Phật sa. mahākātyāyana, pi. mahākaccāna. Vương quốc Ma-kiệt-đà sa., pi. magadha nằm về phía tây của Avanti và nam của sông Hằng. Ngoài ra còn rất nhiều các bộ tộc nhỏ ở phía đông của Kiêu-tát-la và phía bắc của Ma-kiệt-đà. Xã hội trong thời kỳ này phân hóa về tư tưởng rất phức tạp và bao gồm nhiều đẳng cấp xã hội, đạo Bà-la-môn đang hưng thịnh, những giai cấp thấp bị khinh rẻ và không được luật pháp bảo vệ. Có nhiều truyền thuyết về thái tử Tất-đạt-đa. Có thuyết cho rằng một đêm bà mẹ nằm mơ thấy một vị Bồ Tát với dạng con voi trắng nhập vào người mình. Thái tử sinh ra từ hông bên mặt của mẹ, sau đó đi bảy bước, một tay chỉ lên trời, tay kia chỉ xuống đất, nói Aggo `ham asmi lokassa, Jeṭṭho `ham asmi lokassa, Seṭṭho `ham asmi lokassa, Ayam antimā jāti, Natthi dāni punabbhavo. Ta là người cao quý nhất thế gian Ta là người giỏi nhất thế gian Ta là người kiệt xuất nhất thế gian Đây là lần tái sinh cuối cùng Bây giờ không còn tái sinh! Theo Trường bộ kinh pi. pīghanikāya, Đại phẩm pi. mahāvagga, kinh Đại thành tựu, mahāpadānasutta, kinh văn Hán tạng dịch đoạn văn trên là "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn - Nhất thiết thế gian sinh lão bệnh tử ", nghĩa là "Trên trời dưới đất chỉ có bản ngã cho là duy nhất" và dưới mỗi bước chân của thái tử phát sinh một đoá sen. Ngày nay, trong tranh tượng còn thấy tích này. Tập tin Đền thờ công chúa Da-du-đà-la Ngay lúc sinh ra, Tất-đạt-đa đã có đầy đủ hảo tướng Tam thập nhị hảo tướng. Các nhà tiên tri cho rằng Tất-đạt-đa sẽ trở thành hoặc một đại đế hay một bậc giác ngộ. 7 ngày sau khi sinh thì mẹ mất, Tất-đạt-đa được người dì là Ma-ha-ba-xà-ba-đề zh. 摩呵波闍波提, sa. mahāprajāpatī chăm sóc. Năm lên 16 tuổi, Tất-đạt-đa kết hôn với công chúa Da-du-đà-la zh. 耶輸陀羅, sa. yaśodharā. Vua cha Tịnh Phạn dĩ nhiên không muốn thái tử đi tu nên dạy dỗ cho con rất kỹ lưỡng, nhất là không để Tất-đạt-đa tiếp xúc với cảnh khổ. Tuy thế, sau bốn lần ra bốn cửa thành và thấy cảnh người già, người bệnh, người chết và một vị tu sĩ, thái tử phát tâm rồi từ biệt hoàng cung, sống cảnh không nhà. Tương truyền rằng, bốn cảnh ngộ vừa kể là những cảnh tượng do các vị thiên nhân tạo ra nhằm nhắc nhở Tất-đạt-đa lên đường tu học Phật quả. Thái tử thấy rằng ba cảnh đầu tượng trưng cho cái Khổ trong thế gian và hình ảnh tu sĩ chính là cuộc đời của Tất-đạt-đa. Giấc mơ thấy voi trắng nhập vào mình của MayaHoàng hậu Maya trên xe ngựa ghé qua LumbiniThái tử ra đời từ hông bên phải, gần LumbiniPhạn Vương và đoàn tùy tùng Xuất gia và thành đạo[] Tập tinBuddha with Lahầula Tập tin Chính dưới gốc bồ đề tại Bodhgaya này, là nơi Đức Phật đã ngồi thiền thành đạo. Năm 29 tuổi, sau khi công chúa Da-du-đà-la hạ sinh một bé trai - được đặt tên là La-hầu-la zh. 羅睺羅, sa. rāhula, thái tử Tất-đạt-đa quyết định lìa cung điện, cùng tu khổ hạnh với nhiều nhóm tăng sĩ khác nhau. Tất-đạt-đa quyết tâm tìm cách diệt khổ và tìm mọi đạo sư với các giáo pháp khác nhau. Theo truyền thống Ấn Độ bấy giờ chỉ có con đường khổ hạnh mới đưa đến đạt đạo. Các vị đạo sư khổ hạnh danh tiếng thời đó là A-la-la Ca-lam 阿羅邏迦藍, sa. ārāda kālāma, pi. āḷāra kālāma và Ưu-đà-la La-ma tử 優陀羅羅摩子, sa. rudraka rāmaputra, pi. uddaka rāmaputta. Nơi A-la-la Ca-lam, Tất-đạt-đa học đạt đến cấp Thiền Vô sở hữu xứ sa. ākiṃcanyāyatana, pi. ākiñcaññāyatana, nơi Ưu-đà-la La-ma tử thì học đạt đến cấp Phi tưởng phi phi tưởng xứ sa. naivasaṃjñā-nāsaṃñāyatana, pi. nevasaññā-nāsaññāyatana. Nhưng Tất-đạt-đa cũng không tìm thấy nơi các vị đó lời giải cho thắc mắc của mình, nên quyết tâm tự mình tìm đường giải thoát và có năm Tỳ-kheo năm anh em Kiều Trần Như, sa. Koṇḍañña đồng hành. Sau nhiều năm tu khổ hạnh gần kề cái chết, Tất-đạt-đa nhận ra đó không phải là phép tu dẫn đến giác ngộ, bắt đầu ăn uống bình thường, năm tỉ-khâu kia thất vọng bỏ đi. Cách tu cực khổ được Phật nhắc lại sau khi thành đạo như sau[1] Này Aggivessana, rồi Ta tự suy nghĩ như sau "Ta hãy giảm thiểu tối đa ăn uống, ăn ít từng giọt một, như súp đậu xanh, súp đậu đen hay súp đậu hạt hay súp đậu nhỏ." Và này Aggivessana, trong khi Ta giảm thiểu tối đa sự ăn uống, ăn từng giọt một, như súp đậu xanh, xúp đậu đen hay súp đậu hột hay xúp đậu nhỏ, thân của Ta trở thành hết sức gầy yếu. Vì Ta ăn quá ít, tay chân Ta trở thành như những cọng cỏ hay những đốt cây leo khô héo; vì Ta ăn quá ít, bàn trôn của Ta trở thành như móng chân con lạc đà; vì Ta ăn quá ít, xương sống phô bày của Ta giống như một chuỗi banh; vì Ta ăn quá ít, các xương sườn gầy mòn của Ta giống như rui cột một nhà sàn hư nát; vì Ta ăn quá ít, nên con ngươi long lanh của Ta nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt, giống như ánh nước long lanh nằm sâu thẳm trong một giếng nước thâm sâu; vì Ta ăn quá ít, da đầu Ta trở thành nhăn nhiu khô cằn như trái bí trắng và đắng bị cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm cho nhăn nhíu khô cằn. Này Aggivessana, nếu Ta nghĩ "Ta hãy rờ da bụng", thì chính xương sống bị Ta nắm lấy. Nếu Ta nghĩ "Ta hãy rờ xương sống", thì chính da bụng bị Ta nắm lấy. Vì Ta ăn quá ít, nên này Aggivessana, da bụng của Ta đến bám chặt xương sống. Này Aggivessana, nếu Ta nghĩ "Ta đi đại tiện, hay đi tiểu tiện" thì Ta ngã quỵ, úp mặt xuống đất, vì Ta ăn quá ít. Này Aggivessana, nếu Ta muốn xoa dịu thân Ta, lấy tay xoa bóp chân tay, thì này Aggivessana, trong khi Ta xoa bóp chân tay, các lông tóc hư mục rụng khỏi thân Ta, vì Ta ăn quá ít. Lại nữa, này Aggivessana, có người thấy vậy nói như sau "Sa-môn Gotama có da đen." Một số người nói như sau "Sa-môn Gotama, da không đen, Sa-môn Gotama có da màu xám." Một số người nói như sau "Sa-môn Gotama da không đen, da không xám." Một số người nói như sau "Sa-môn Gotama da không đen, da không xám, Sa-môn Gotama có da màu vàng sẫm." Cho đến mức độ như vậy, này Aggivessana, da của Ta vốn thanh tịnh, trong sáng bị hư hoại vì Ta ăn quá ít." Không đạt giải thoát với cách tu khổ hạnh, Tất-đạt-đa từ bỏ phép tu này. Quả quyết rằng mình đã đi đến chỗ cùng cực của công phu tu khổ hạnh và khổ hạnh không dẫn đến giác ngộ, Tất-đạt-đa tìm phương pháp khác, và nhớ lại một kinh nghiệm thời thơ ấu, lúc đang ngồi dưới gốc cây mận[1] Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau "Ta biết, trong khi phụ thân Ta, thuộc giòng Sakka Thích-ca đang cày và Ta đang ngồi dưới bóng mát cây diêm-phù-đề pi. jambu, Ta li dục, li pháp bất thiện chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỉ lạc do li dục sinh, có tầm, có tứ." Khi an trú như vậy, Ta nghĩ "Đạo lộ này có thể đưa đến giác ngộ chăng?" Và này Aggivessana, tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta "Đây là đạo lộ đưa đến giác ngộ." Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ "Ta có sợ chăng lạc thụ này, một lạc thọ li dục, li pháp bất thiện?" Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ "Ta không sợ lạc thụ này, một lạc thọ li dục, li pháp bất thiện." Tập tinSermon in the Deer Park depicted at Wat Chedi Đức Phật thuyết pháp cho 5 vị Tỳ-kheo đầu tiên. Sau đó Tất-đạt-đa ăn uống bình thường trở lại, đến Giác Thành, ngồi dưới gốc một cây Bồ-đề ở Bồ ề ạo Tràng Bodh Gaya và nguyện sẽ nhập định không rời chỗ ngồi cho đến lúc tìm ra nguyên nhân và cơ chế của Khổ. Sau 49 ngày thiền định—mặc dù bị Ma vương quấy nhiễu—Tất-đạt-đa đạt giác ngộ hoàn toàn ở tuổi 35. Từ thời điểm đó, Tất-đạt-đa biết mình là Phật, là một bậc Giác ngộ, và biết rằng mình sẽ không còn tái sinh. Kinh nghiệm giác ngộ của Phật được ghi lại như sau trong kinh sách theo chính lời của ngài như sau[2] "... Sau khi hoàn lại sinh lực sau khi tu khổ hạnh vô ích, ta chú tâm giải thoát khỏi những tư tưởng tham ái, bất thiện và đạt được sơ thiền, sau đó nhị thiền, tam thiền và tứ thiền Tứ thiền, nhưng những cảm giác hỉ lạc này không để lại dấu vết gì trong tâm ta. Khi tâm ta được an tịnh, thanh lọc, không bị dục vọng cấu uế, nhạy bén, chắc chắn, bất động, ta hướng nó về những kí ức và nhận thức về các kiếp trước. Ta nhớ lại nhiều tiền kiếp, một, hai, ba, bốn, năm,..., trăm ngàn kiếp trước, nhớ những chu kì của thế giới. 'Nơi đó ta đã sống, tên của ta đã như thế, gia đình của ta là như thế, nghề nghiệp của ta, giai cấp xã hội của ta... Ta đã chết như vầy...'. Sự hiểu biết sa. vidyā, pi. vijjā đầu tiên này ta đã đạt được trong canh đầu [3]... Sau đó ta chú tâm đến sự sinh thành và hoại diệt của chúng sinh. Với con mắt của chư thiên, trong sáng, siêu việt mọi giới hạn nhân thế, ta thấy chúng sinh hình thành và tiêu hoại,...chúng sinh tái sinh theo nghiệp lực. Ta nhận ra rằng 'Chúng sinh tạo nghiệp bất thiện qua ba ải thân khẩu ý đều chìm đắm sau khi chết, tái sinh trong đoạ xứ, địa ngục. Các chúng sinh nào tạo thiện nghiệp bằng thân khẩu ý được tái sinh trong thiện đạo, sau khi chết được lên cõi thiên'... Sự hiểu biết thứ hai này ta đã đạt được trong canh hai [4]. Sau đó ta chú tâm nhận thức về sự tiêu diệt các lậu hoặc 漏, sa. āsrava, pi. āsava và nhìn nhận như thật 'Đây là khổ, đây là nguyên nhân của khổ, đây là phương pháp tiêu diệt khổ, đây là con đường tiêu diệt khổ', và khi ta nhận thức được điều này, tâm ta thoát khỏi dục vọng, ham muốn tồn tại, vô minh. Ta tự hiểu chân lí 'Tái sinh ta đã đoạn, cuộc sống tu tập của ta đã hoàn tất, ta đã hoàn thành những gì phải làm. Cuộc sống khổ đau này ta đã vượt qua'... Sự hiểu biết thứ ba này ta đã đạt được trong canh ba [5]...". Bậc giác ngộ lúc đó biết rằng kinh nghiệm giác ngộ của mình không thể dùng ngôn từ hay bất cứ một cách nào khác để truyền đạt nên Phật tiếp tục yên lặng ngồi thiền định dưới gốc cây Bồ-đề. Cuối cùng, được sự thỉnh cầu nhiều nơi, Phật mới quyết định chuyển Pháp luân. Phật giờ đây mang danh hiệu Thích-ca Mâu-ni—"Trí giả của dòng dõi Thích-ca". Sau đó Phật gặp lại năm vị tỉ-khâu, các vị đó nhận ra rằng Phật đã hoàn toàn thay đổi. Qua hào quang toả ra từ thân Phật, các vị đó biết rằng người này đã đạt đạo, đã tìm ra con đường thoát khổ, con đường mà các vị đó không thể tìm ra bằng phép tu khổ hạnh. Các vị đó xin được giảng pháp và vì lòng thương chúng sinh, Phật chấm dứt sự im lặng. Hóa độ và tịch diệt[] Đức Phật bắt đầu giảng pháp bằng cách trình bày con đường dẫn đến kinh nghiệm giác ngộ và giải thoát. Trên cơ sở kinh nghiệm giác ngộ của mình, Đức Phật giảng Tứ diệu đế, Duyên khởi và quy luật Nhân quả Nghiệp. Tại vườn Lộc uyển ở Sarnath gần Ba-la-nại Benares hay Varanasi, Đức Phật bắt đầu những bài giảng đầu tiên, gọi là "Chuyển Pháp luân". Năm vị Tỳ-kheo đó trở thành năm đệ tử đầu tiên của Đức Phật và là hạt nhân đầu tiên của Tăng-già. Sau đó Phật thuyết pháp từ năm này qua năm khác. Đức Phật hay lưu trú tại Vương-xá zh. 王舍城, sa. rājagṛha và Phệ-xá-li zh. 吠舍釐, sa. vaiśālī, sống bằng khất thực, đi từ nơi này qua nơi khác. Đệ tử của Phật càng lúc càng đông, trong đó có vua Tần-bà-sa-la zh. 頻婆娑羅, sa. bimbisāra của xứ Ma-kiệt-đà. Vị vua này đã tặng cho Tăng đoàn một tu viện gần kinh đô Vương-xá. Các đệ tử quan trọng của Phật là A-nan-đà, Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên. Cũng trong thời gian này, đoàn Tỉ-khâu-ni sa. bhikṣuṇī được thành lập. Cuộc đời Đức Phật cũng gặp nhiều người xấu muốn ám hại. Trong số đó, có Đề-bà-đạt-đa là người em họ, muốn giành quyền thống lĩnh Tăng-già, nên rắp tâm tìm cách giết hại Đức Phật nhiều lần nhưng không thành. Tuy thế Đề-bà-đạt-đa thành công trong việc chia rẽ Tăng-già ở Phệ-xá-li. Đức Phật đi con đường trung đạo và tùy thuận chúng sanh, ngược lại Đề-bà-đạt-đa chủ trương một cuộc sống khổ hạnh cực đoan. Tập tin Đức Phật nhập Niết-bàn trong rừng Sàla tại Câu Thi Na. Sống đến năm 80 tuổi, Đức Phật Thích-ca tịch diệt. Qua 45 năm giảng dạy, nghĩ rằng các đệ tử có thể chấp lời mình nói là chân lý, chứ không phải chỉ là phương tiện giác ngộ, Đức Phật tuyên bố chưa từng nói lời nào. Lời dạy cuối cùng của Đức Phật là "Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường, chịu biến hoại, hãy tinh tiến tu học để đạt giải thoát!". Theo kinh Đại bát-niết-bàn pi. mahāparinibbāna-sutta, Đức Phật nhập diệt tại Câu-thi-na zh. 拘尸那, sa. kuṣinagara vào năm 486 hay 483 trước Công nguyên. Trước đó sức khoẻ của Ngài đã trở nên rất yếu sau khi dùng bữa cúng dường tại nhà thí chủ Thuần-đà zh. 純陀, pi. cunda, tuy nhiên sau đó Ngài có nhấn mạnh cho tôn giả A-nan-đà hiểu là Tăng chúng không nên khiển trách người thợ rèn đó đã có thiện ý tối thượng. Đức Phật tạo điều kiện cho các chư Tỳ-kheo cơ hội cuối cùng để chất vấn hay hỏi đáp Ngài nếu như có những vấn đề hay những điểm nào còn chưa sáng tỏ có thể đưa đến các kiến giải khác nhau về sau, tuy nhiên các vị đã im lặng, không có những câu hỏi hay thắc mắc nào. Trong cánh rừng Sàla ven phía nam thành phố, đêm rất tối và tĩnh mịch, Đức Phật nằm nghiêng bên phía hữu, đầu hướng về phía Bắc, mặt hướng về phía Tây và dần nhập Niết-bàn thông qua các mức thiền định, một trạng thái giải thoát hoàn toàn khổ đau của cuộc sống. Theo truyền thuyết Pali thì Đức Phật diệt độ ngày rằm tháng tư, văn bản Phạn ngữ cho rằng ngày rằm tháng 11. Trong buổi hoả thiêu thân xác của Đức Phật có nhiều hiện tượng lạ xảy ra. Xá-lợi của Phật được chia làm 8 phần và được thờ trong các tháp khác nhau. Mặc dù cuộc đời Đức Phật có nhiều huyền thoại bao phủ nhưng các nhà khảo cổ học và nhân chủng học - vốn hay có nhiều hoài nghi và thành kiến - cũng đều nhất trí công nhận Đức Phật là một nhân vật lịch sử và người đã khai sáng Phật giáo. Chú thích[] ↑ 1,0 1,1 MN 36, Thích Minh Châu dịch Pali-Việt ↑ MN 36, theo bản dịch Đức của Schumann, Chân Nguyên dịch Đức-Việt ↑ từ 21 đến 24 giờ đêm ↑ từ 24 giờ đêm đến 3 giờ sáng ↑ 3 đến 6 giờ sáng Tham khảo[] Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. Phật Quang Đại Từ Điển. Phật Quang Đại Từ Điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc Phật Quang xuất bản xã, 1988. Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986. Schumann, Buddhismus Stifter, Schulen und Syteme, Olten 1976. Der historische Buddha Leben und Lehren des Gotama, Köln, 1982. Hirakawa, Akira A History of Indian Buddhism. From Śākyamuni to Early Mahāyāna. Translated and Edited by Paul Groner. University of Hawaii Press, 1990. Thích Minh Châu dịch Trung bộ kinh 36 MN 36 Xem thêm[] Nhiên Đăng Cổ Phật Dipankara Phật Tỳ Bà Thi hay Phật Bỳ Lư Thi, Vipasyin Phật Thi Khí Sikhin Phật Tỳ Xá Phù hay Phật Tỳ Xá Bà, Visvabhu Phật Câu Lưu Tôn hay Phật Câu Lâu Tôn, Krakucchanda Phật Câu Na Hàm Mâu Ni Kanakamuni Phật Ca Diếp Kasyapa Phật Di Lặc sa. maitreya, pi. metteyya Phật Phật giáo Lịch sử Phật giáo Liên kết ngoài[] Bản mẫuCommons Lịch Sử Đức Phật–H. W. Schumann thông tin về địa danh KAPILAVASTU Lịch sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni–Gia Tuệ Lược Sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni–Hòa thượng Thích Thiện Hoa TÌM HIỂU NGÀY SANH CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA Bản mẫuViết tắt Phật học Bản mẫuTín ngưỡng Phật giáo
Đấng Phạm Thiên, Tứ Thiên Vương và các chư thiên ở cung trời Đâu Suất thỉnh bồ tát Hộ Minh tái thế để giáo hoá và cứu độ chúng sinh ở cõi Ta BàHoàng hậu Ma Da Maha Maya nằm mộng thấy một con bạch tượng rất lớn đến từ ngọn núi vàng dâng lên cho bà một đóa sen ngày mồng 8 tháng 4 năm 624 TCN, hoàng hậu Ma DaMaha Maya hạ sinh thái tử Tất Đạt ĐaSiddhārtha tại vườn Lâm Tỳ NiLumbini. Khi sinh ra, ngài đã đi bảy bước, mỗi bước nở ra một đóa sen. Ngài một tay chỉ trời, một tay chỉ đất và nói rắng “Thiên thượng, thiên hạ. Duy ngã độc tôn”. Sau khi sinh ngài được bảy ngày thì hoàng hậu Ma Da qua đời. Thái tử được giao cho người dì là Ma Ha Ba Xà Bà ĐềMaha Pajapati Gotami nuôi cha Tịnh PhạnSuddhodana vui mừng bèn triệu tập các vị thánh giả, đạo sư để xem tướng và cầu phúc cho con trai của hôm có vị đạo sư tên là A Tư ĐàAsita đến từ Hy Mã Lạp SơnHymalaya xin yết kiến vua để chúc mừng và xem mặt thái tử. Ngài A Tư Đà xem xong bật khóc. Vua Tịnh Phạn hỏi nguyên nhân. A Tư Đà thưa rằng “Thái tử có đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp sau này nhất định sẽ trở thành bậc chánh đẳng, chánh giác. Tôi khóc là vì tới lúc đó thì tôi đã chết rồi nên không có cơ hội nghe pháp của ngài”.Thái tử Tất Đạt Đa lớn lên là người trầm tư, hay tìm những nơi thanh tịnh để thiền định. Một hôm trong ngày lễ Hạ Điền, ngài thấy người nông dân cầm roi đánh con trâu đang nặng nhọc kéo cày phía trước. Lưỡi cày xới tung đất lên cuốn theo những con trùng, có con bị nắng thiêu đốt, có con bi lưỡi cày cắt thành nhiều đoạn đang quằn quại. Lại có những con chim nhỏ bay xuống gấp lấy những con trùng đó, rồi lại có những con chim lớn đuổi bắt những con chim nhỏ. Ngài cảm thấy buồn phiền với những điều mình vừa trông thấy, nên đã ra một gốc cây to để thiền tử Tất Đạt Đa được nuôi dạy rất chu đáo về cả văn lẫn võ. Với sự thông minh và sức mạnh phi thường của mình, đến năm 12 tuổi ngài đã thông thạo tất cả các học vấn. Từ năm 13 tuổi ngày được truyền thụ võ nghệ. Ngài có sở trường bắn cung rất thiện xạ. Trong một lần trong một cuộc thi bắn cung, ngài đã nâng được chiếc cung rất nặng mà từ trước đến giờ chưa ai nâng nổi và bắn xuyên qua 7 lớp bia đồng trong khi người giỏi nhất cũng chỉ bắn xuyên được 3 khi giành chiến thắng trong cuộc thi tuyển chọn phò mã. Ngài đã kết hôn với công chúa Da Du Đà La Yasodhara lúc ngài được 16 cha Tịnh Phạn rất yêu quý và luôn cung cấp cho ngài những thứ tốt nhất trên đời. Ngài đã có 13 năm sống cùng vợ trong sự tột cùng của nhung ngày khi đi dạo bốn cửa thành, ngài đã nhìn thấy 4 hình ảnh đó là một người già yếu, một người bệnh tật, một xác chết và một vị tu sĩ. Ngài nhận ra một điều là con người ta được sinh ra rồi già đi, rồi sẽ bị bệnh tật và cuối cùng sẽ chết cho dù người đó có là ai đi chăng nữa. Ngài trân quý hình ảnh siêu thoát của vị tu quay về cung nhìn thấy các cung nữ say sưa, thân thể lõa lồ, nằm ngổn ngang trong phòng khiến ngài cảm thấy sự ô uế của con bao nhiêu sự việc, ngài quyết định ra đi tìm đường giải thoát. Ngài đến phòng của mình, ghé cửa nhìn vào người vợ yêu dấu Da Du Đà La và đứa con thơ La Hầu LaRàhula lần cuối trước khi lên rồi ngài đã cỡi con ngựa Kiền TrắcKantaka cùng với người nô bọc của mình là Xa NặcChanna bỏ lại kinh thành ra đi vào giữa đêm đến bờ sông Anoma, ngài đã cắt tóc, trao lại ngựa, tháo bỏ tất cả trang sức quần áo đưa cho Xa Nặc và kêu Xa Mặc trở về. Khi đó ngài được 29 khi đã thọ giáo hết với 2 vị thấy đầu tiên là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta ngài đã đến một khu rừng để tu ép xác khổ hạnh cùng với 5 anh em Kiều Trần NhưKondana. Sau 6 năm tu ép xác, thân thể ngài càng suy nhược, yếu ớt tưởng chừng sắp chết. Đến khi ngài nghe được tiếng đàn của đấng Phạm Thiên Indra, ngài liên tưởng đến loại dây đàn không quá căng cũng không quá chùng nên ngài đã phát hiện ra con đường trung dung – Trung Đạo. Ngài đã ăn uống bình thường trở lại. Điều này khiến cho 5 anh em Kiều Trần Như thất vọng và đã bỏ ngải để ra đi tìm nơi khác tiếp tục ép xác tu đã thọ nhận bát cháo sữa của nàng khi thọ thực xong, ngài đã đặt chiếc bát xuống dòng sông Ni Liên và thệ nguyện sẽ đạt được giác ngộ rốt ráo. Chiếc bát đã trôi ngược theo dòng nước. Sau đó ngài đã băng qua dòng nước và được anh nông dân cúng dường bó cỏ Kusa một loại cỏ thơm, Ngài bèn dùng bó cỏ làm gối lót tọa thiền, rồi đến ngồi dưới gốc cây Bồ ĐềBoddhi mà phát nguyện “Nếu không đạt thành đạo quả, ta quyết không đứng dậy và không rời khỏi chỗ này.”Khi ngài đang ngồi thiền thì bất chợt có một cơn mưa trái mùa rất lớn. Thần rắn Naga liền bò ra khỏi hang, quấn mình quanh chổ ngồi của ngài 7 vòng để nâng ngài lên và dùng đầu của mình để che mưa cho đã ngồi quán tưởng các duyên khởi, nhìn thấy được các kiếp trước của mình, của chúng sanh, sự hình thành và hủy diệt của thế giới, của nhiều thế vương Vasavatti cùng đoàn tùy tùng đã đến quấy nhiễu ngài. Một vị nữ thần từ trong lòng đất đã đánh bại ma vương để hộ pháp cho ngài. Nhờ tu tập pháp độ trong nhiều kiếp nên ngài đã nhiếp phục ma vương một cách dễ dàng. Cuối cùng ma vương cũng bị khuất phục và thành tâm đảnh lễ với buổi bình minh trăng tròn tháng 4 năm 588 TCN, ngài đã hoàn toàn giác ngộ trở thành một đấng chánh đẳng, chánh giác, một vị người con gái của Ma vương vẫn không buông tha cho ngài và lại tìm cách quyến rũ ngài nhưng họ đều thất bại trước một vị toàn giác như Phạm Thiên đã cầu xin Đức Phật đem chánh pháp giáo hóa chúng sanh. Đức Phật đã nhận lời hoằng pháp độ Phật đã chuyển pháp luân đầu tiên tại Lộc Uyểnvườn Nai gần thành Ba La NạiBenares. Ngài đã giảng bài pháp đầu tiên là Tứ Diệu Đế cho 5 anh em Kiều Trần Như. Sau này cả 5 người này đều đắc quả A-la-hánVào ngày Magha rằm tháng 6 Đức Phật đã giáo giới cho 1250 vị Tỳ kheo. Nội dung tóm tắt là “Không làm các điều ác. Gắng làm các việc lành. Giữ tâm ý trong sạch. Chư Phật đều dạy thế”.Thân phụ của Đức Phật là vua Tịnh Phạn đã già yếu. Nghe tin Đức Phật giảng pháp ở thành Vương XáRajagaha, vua bèn sai sứ giả đến mời Đức Phật về thành Ca Tỳ La VệKapilavatthu. Cả 9 vị sứ giả vua sai đi khi đến nơi thì đều nghe được Phật thuyết pháp, xin xuất gia và thành quả A-la-hán. Đến vị sứ giả thứ 10 đến vị này tên là Kaludayi vốn trước đây từng là bạn thân của Đức Phật khi ngài còn là thái tử, sau khi nghe Phật thuyết pháp cũng xin xuất gia và đắc quả A-la-hán nhưng cũng không quên chuyển lời của vua Tịnh Phạn đến Đức Phật. Đức Phật nghe xong đã nhận lời và cùng các thánh đệ tử lên đường về thăm gia thứ 2 sau khi về thăm nhà, nhà vua mở tiệc ở Hoàng cung và mời Đức Phật cùng thánh đệ tử thọ trai. Sau khi thọ trai xong, Đức Phật cùng vua cha và 2 thánh đệ tử là ngài Xá Lợi PhấtSariputta và ngài Mục Kiền LiênMoggalana đã đến phòng công chúa Da Du Đà La. Sau khi vào phòng, Đức Phật đã ngồi vào chổ sắp sẳn. Sau khi công chúa đảnh lễ ngài, ngài đã thuyết giảng chuyện bổn sanh Candakinnara để nói về mối liên hệ giữa ngài và công chúa. Ngài đã khen ngợi công chúa “Không phải chỉ trong kiếp sống cuối cùng của Như Lai mà trong tiền kiếp, nàng đã bảo vệ, kỉnh mộ và trung thành với Như Lai.”. Sau đó ngài đã an ủi công chúa và giã từ hoàng cung. Về sau công chúa Da Du Đà La cũng xuất gia theo Đức Phật và đã đắc quả A-la-hán. Trong hàng các vị tăng ni thì bà Da Du Đà La đã chứng đắc thần thông cao nhất Maha Abhinna.Ngài thứ 3 sau khi về thăm nhà của Đức Phật cũng chính là ngày cưới của hoàng tử Nanda. Hoàng tử Nanda vốn là anh em cùng cha khác mẹ với Đức Phật. Trong lễ cưới Đức Phật trao cho Nanda chiếc bát, đọc kinh cầu phúc rồi ngài vờ như quên thâu lại và đi về tịnh xá. Nanda vì kính nể Đức Phật nên phải ôm bát đi theo. Về đến tịnh xá, Đức Phật hỏi Nanda có muốn xuất gia hay không. Nanda vì nể nang anh mình nên đã miễn cưỡng đồng ý nhưng trong lòng thì luôn nghĩ đến người vợ trẻ đẹp mới cưới của mình. Đức Phật biết điều này nên đã dùng thần thông dẫn Nanda đi dạo lên cõi trời. Trên đường đi Nanda thấy có một con khỉ cái lông trên mình đã bị cháy xém bám trên một cành cây. Khi lên đến cung trời Đâu Suất, Nanda lại thấy có vô vàng tiên nữ với vẻ đẹp tuyệt vời. Đức Phật chỉ đám tiên nữ và hỏi Nanda “Này Nanda, so với những tiên nữ này thì vợ mới cưới của ngươi thế nào ?”. Nanda đáp rằng “Nếu đem so với những tiên nữ này thì cô ấy giống như con khỉ cái bị cháy đang cố bám lấy cành cây khô”. Đức Phật lại bảo Nanda “Nếu ngươi kiên trì thực hành giáo huấn thì sau này ngươi sẽ có nhiều cung tần mỹ nữ đẹp như thế này”. Nanda nghe nói thế trong lòng phấn chấn và cố công tu tập nhưng ngài đã bị các vi tỳ kheo khác chê cười vì mục đích tu tập tầm thường của mình. Ngài đã tỉnh ngộ, nhận thức được mục đích thấp hèn của mình nên ngài đã gạt bỏ những tư tưởng xấu xa, tinh tấn nổ lực tu tập. Về sau ngài chứng được quả ngày thứ 7 khi Đức Phật lưu lại quê nhà, công chúa Da Du Đà La đã mặc y phục đàng hoàng cho La Hầu LaRahula và chỉ vào Đức Phật mà bảo La Hầu La hãy đến xin tài sản của cha con đi. La Hầu La lúc ấy được 7 tuổi, là con trai duy nhất của Đức Phật, đã đến bên Đức Phật và bạch rằng “Xin ngài hãy trao tài sản của ngài cho con vì tài sản của ngài cũng là của con”. Đức Phật nghĩ thầm “Nó muốn gia tài của cha, nhưng tài sản trong thế gian quả thật đầy phiền não. Như Lai sẽ ban cho nó gia tài cao thượng gồm bảy phần mà Như Lai đã thâu đạt dưới cội bồ đề. Như Lai sẽ giúp cho nó trở thành sở hữu chủ của một gia tài siêu thế.” Thế rồi ngài làm lễ xuất gia cho La Hầu La và cho theo ngài Xá Lợi Phất thọ vua Tịnh Phạn hấp hối, Đức Phật đã đến bên giường bệnh và giảng pháp lần cuối cùng cho vua cha. Vua Tịnh Phạn nghe xong liền đắc quả A-la-hán. Sau khi hưởng sự an lạc trên trần thế được 7 ngày, vua Tịnh Phạn nhập niết Phật đã dùng thần thông để lên cung trời Đao Lợi giảng Vi Diệu pháp Kinh Địa Tạng độ cho Phật mẫu là hoàng hậu Ma Phật từ cung trời Đao Lợi trở về thế gian, các hàng chư thiên ra đưa tiễn rất tròn 80 tuổi, Đức Phật biết việc thuyết pháp giáo hóa chúng sinh của mình đã viên mãn, đó là lúc Như Lai sẽ nhập niết bàn. Ngài đã nói với ngài A Nan là 3 tháng nữa ngài sẽ nhập diệt. A Nan thành khẩn cầu xin Đức Phật sống thêm 1 kiếp nữa nhưng Đức Phật đã từ chối và giảng pháp vô thường. Từ thành Tỳ Xá LyVaisali Đức Phật đã cùng với A Nan và các thánh chúng đệ tử đi đến thành Câu Thi NaKusinara. Trên đường đi Đức Phật đã thuyết pháp giáo độ chúng sanh rất nhiều. Khi đến Pava, Đức Phật và thánh đệ tử được ngưởi thợ rèn tên là Thuần ĐàCunda thiết tiệc trai. Thuần Đà còn làm riêng cho Đức Phật món đặc biệt là sùkaramaddava. Đức Phật nhìn thấy món ăn đã ngăn không cho các đệ tử của mình dùng và nói rằng “Chỉ có Như Lai mới ăn và tiêu hóa được thức ăn này mà thôi”. Sau khi thọ trai xong, Đức Phật đã bị kiết lỵ rất nặng. Tuy cơ thể rất mệt mỏi nhưng Đức Phật vẫn bình thản tiếp tục hành trình. Đức Phật tắm lần cuối cùng ở sông Kakutthi, và sau khi nghỉ một lát, Ngài nói với Đại đức A Nan “Có thể có người trách Thuần Đà về bữa cơm cuối cùng dọn cho Ta, vì sau bữa ăn đó Ta sẽ nhập Niết bàn, và Thuần Đà có thể ăn năn hối hận. Nhà ngươi cần nói cho Thuần Đà biết rằng, có hai bữa ăn cúng dường cho Như Lai, đem lại công đức lớn nhất cho người cúng dường. Đó là bữa ăn cúng dường Như Lai trước giờ Như Lai thành đạo và bữa ăn cúng dường Như Lai trước giờ Như Lai nhập Niết bàn. Hãy nói cho Thuần Đà biết rằng, nhờ đã cúng dường Như Lai bữa ăn cuối cùng trước khi Như Lai nhập Niết bàn, Thuần Đà được phúc đức lớn, quả báo lớn, nhờ đó mà Thuần Đà được thọ mạng lâu dài, tái sanh ở cõi lành, giàu có, tiếng tăm, được sanh lên cõi trời và có quyền lực lớn. Này A Nan, ngươi hãy nói như vậy để loại bỏ mọi nỗi ân hận của Thuần Đà, nếu có”.Đức Phật đến vườn cây Sala ở Kusinara, nơi có bộ tộc Mallas ở, và bảo Đại đức Ananda chuẩn bị chỗ nằm, để Đức Phật yên nghỉ, đầu hướng Bắc, nằm nghiêng mình, chân phải để trên chân trái, bình thản, tỉnh táo. Lúc này có 1 đạo sĩ tên là Subhadda xin vào gặp Đức Phật. Ngài A Nan đã từ chối vì nhận thấy lúc này Đức Phật đã rất mệt nhưng Đức Phật bảo A Nan cho người đạo sĩ đó vào. Sau khi nghe Phật thuyết giảng, Subhadda xin Phật xuất gia. Đây cũng là vị đệ tử cuối cùng của Đức Phật. Phật lại căn dặn A Nan và thánh chúng đệ tử gắng sức tu tập để đạt được giải thoát. Sau đó Đức Phật im lặng từ từ đi vào thiền định và nhập Niết Bàn vào năm 543 6 năm khổ hạnh, 45 năm thuyết pháp độ sinh, cuối cùng công đức của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật cũng đã viên mãn. Cuộc đời vĩ đại của Đức Phật từ lúc đản sanh đến lúc nhập Niết Bàn luôn là bài học lớn có giá trị mặc dù đã trãi qua hơn 25 thé kỷ. Suốt cuộc đời hành đạo của mình, Đức Phật chỉ nhận mình là bậc Đạo sư, là người dẫn đường. Ngài luôn dạy các đệ tử phải tự mình tu tập và cũng chỉ tự bản thân mình mà thôi, không ai có thể giúp đỡ được. “Tự mình điều ác làm. Tự mình làm nhiễm ô. Tự mình ác không làm. Tự mình làm thanh tịnh. Tịnh, không tịnh tự mình. Không ai thanh tịnh ai”Pháp Cú, kệ 165Đệ tử Thiện Ý xin cúi đầu thành tâm đảnh lễ Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni đem công đức nàyHướng về khắp tất cảĐệ tử và chúng sanhĐều trọn thành Phật đạoNguồn tham khảo
Mới nhất Thời sự Góc nhìn Thế giới Video Podcasts Kinh doanh Bất động sản Khoa học Giải trí Thể thao Pháp luật Giáo dục Sức khỏe Đời sống Du lịch Số hóa Xe Ý kiến Tâm sự Thư giãn Du lịchĐiểm đếnQuốc tế Thứ sáu, 18/10/2019, 1405 GMT+7 Tại Nepal và Ấn Độ, du khách có thể tham quan vườn Lâm Tỳ Ni, Bồ Đề Đạo Tràng, vườn Lộc Uyển và thành Câu Thi Na. Lâm Tỳ Ni, nơi Đức Phật đản sinh Lâm Tỳ Ni hay Lumbini nằm ở vùng đồng bằng Terai, miền nam Nepal là một trong bốn thánh tích Phật giáo quan trọng nhất. Nơi đây từng bị lãng quên cho tới năm 1896, khi các nhà khảo cổ học phát hiện trụ đá của vua Mauryan Asoka vua A Dục, có nguồn gốc từ năm 249 TCN. Trên đó có ghi sắc lệnh, cho biết đây là nơi hoàng hậu Maya Devi sinh thái tử Siddhartha Gautama thái tử Tất Đạt Đa năm 623 TCN. Khu di tích bao gồm bể Shakya, đền thờ hoàng hậu Maya Devi, cột trụ vua A Dục làm bằng đá sa thạch. Ngoài ra còn có tự viện viharas và phần còn lại của bảo tháp Phật giáo có nguồn gốc từ thế kỷ 3 TCN. Ngày nay, Lâm Tỳ Ni là một trong bốn trung tâm hành hương của Phật giáo, được mệnh danh là Tứ thánh địa. Năm 1997, UNESCO đã công nhận nơi đây là di sản văn hóa thế giới. Bên cạnh trụ đá vua A Dục là đền thờ hoàng hậu Maya Devi. Ngôi đền được xây dựng lại với 4 bức tường trắng, nhằm bảo tồn di tích đã được khai quật. Vào bên trong, du khách có thể chiêm ngưỡng bức phù điêu mô tả sự kiện hoàng hậu hạ sinh thái tử hay phiến đá có in dấu chân nhỏ, được khắc bởi vua A Dục, để đánh dấu nơi đản sinh của Phật. Ảnh Shutterstock/Angela Meier. Bồ Đề Đạo Tràng, nơi Đức Phật thành đạo Quần thể đền Mahabodhi rộng 4,8 ha, thuộc thị trấn Bodh Gaya Bồ Đề Đạo Tràng, bang Bihar, Ấn Độ là nơi Đức Phật đạt giác ngộ. Ngôi đền đầu tiên được xây dựng bởi vua A Dục vào thế kỷ 3 TCN và những ngôi đền hiện tại có nguồn gốc từ thế kỷ 5, 6. Đây là một trong những công trình Phật giáo đầu tiên được xây dựng hoàn toàn bằng gạch, vẫn được bảo tồn cho tới ngày nay. Quần thể đền hiện còn có Kim cương tòa, Cội bồ đề nơi Đức Phật thành đạo. Trên ảnh là Cội bồ đề, nằm ở phía tây của đền chính. Đây là nơi thái tử Tất Đạt Đa thiền tọa, tu khổ hạnh và đạt giác ngộ, trở thành Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Cây bồ đề ngày nay không phải cây gốc từ thời Phật thành đạo. Bên cạnh cây bồ đề là ngai kim cương, bao quanh bởi hàng rào đá sa thạch được xây dựng lần đầu bởi vua A Dục, đánh dấu nơi Phật ngồi và thiền định. Ngày nay, chỉ còn lại vài cột trụ của hàng rào còn sót lại. Trên đó là những hình chạm khắc mặt người, động vật và các chi tiết trang trí. Vườn Lộc Uyển, nơi Đức Phật giảng bài pháp đầu tiên Sarnath hay vườn Lộc Uyển, cách thành phố Varanasi, Ấn Độ khoảng 10 km là nơi Đức Phật giảng pháp. Trước đây, khu vườn có tên gọi là Mrigadava, có nghĩa là vườn nai. Theo điển tích, sau khi giảng kinh Chuyển Pháp Luân cho 5 vị tỳ kheo, Đức Phật đã ở lại tịnh xá trong vườn Lộc Uyển vào mùa mưa. Nơi đây cũng gắn liền với tích 60 vị tăng gia du hành khắp nơi để giảng Phật pháp và đắc quả A la hán. Ngày nay, các tòa nhà cổ và công trình ở khu vườn đã bị hư hại. Tuy nhiên vẫn còn lại di tích của tháp Dhamek; tháp Dharmarajika được dựng bởi vua A Dục hay tháp Chaukhandi, nơi Đức Phật gặp các đệ tử đầu tiên của mình. Ngoài ra, du khách cũng có thể tham quan di tích tịnh xá Mulagandhakuti, trụ đá vua A Dục và cây bồ đề chiết nhánh từ Bồ Đề Đạo Tràng. Câu Thi Na, nơi Đức Phật nhập Niết bàn Câu Thi Na hay thánh tích Kushinagar tọa lạc tại bang Uttar Pradesh, Ấn Độ. Đây là nơi Đức Phật nhập diệt dưới tàng cây sa la. Cũng giống như 3 thánh tích khác có liên quan đến cuộc đời Đức Phật, Câu Thi Na từng là thánh địa để các Phật tử về chiêm bái. Nơi đây đã tồn tại hàng nghìn tự viện, bảo tháp có từ thế kỷ thứ 3 - 5. Sau khi khai quật lại vào thế kỷ 19, các nhà khảo cổ đã phát hiện những mảnh vỡ của tượng Phật, các cột trụ và bia ký. Trong ảnh là đền Mahaparinirvana, được xây dựng lại trên những tàn tích cổ xưa của bảo tháp với tượng Phật nằm, có nguồn gốc từ thế kỷ 5. Nhà sư đang thiền định dưới bảo tháp Ramabhar. Theo điển tích, đây là nơi Đức Phật được hỏa táng. Khí hậu Ấn Độ chia thành 3 mùa chính là mùa đông, mùa hè từ tháng 3-6 và mùa mưa tháng 6-9. Thời gian đẹp nhất của du lịch Ấn Độ là vào mùa đông, từ tháng 10 đến hết tháng 2 năm, khi thời tiết ở khắp các bang đều mát mẻ và dễ chịu. Hiện du khách có thể bay thẳng với hãng hàng không IndiGo từ Hà Nội hoặc TP HCM đến Kolkata, Ấn Độ, rồi bay tiếp đến các thành phố khác. Gotadi hiện là đại diện duy nhất của hãng bay này tại Việt Nam, đồng thời cung cấp tour hành hương 8 ngày 7 đêm đến 4 thánh tích. Minh An
hoàng tử tất đạt đa